• Loading...

 Chào mừng bạn đến với Trang Thông tin điện tử Khuyến Nông tỉnh Yên Bái!

Chuyên mục hỏi đáp

đặt câu hỏi

    Câu hỏi:


  • HÌNH ẢNH

    In Đọc bài
    Hướng dẫn kỹ thuật trồng quế hữu cơ
    22/12/2021 9:54:00 SA
    Lượt xem: 5996

    1. Đặc điểm và giá trị kinh tế:

    Quế là cây thân gỗ đa tác dụng, khảnăng cung cấp các sản phẩm ngoài gỗ như vỏ cây, vỏ cành, tinh dầu được chưng cất từ vỏ hoặc lá, có giá trị kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu để sản xuất dược liệu, làm gia vị chế biến thức ăn, làm hương liệu sản xuất các mặt hàng mỹ phẩm cao cấp, được sử dụng nhiều ở cả trong nước và xuất khẩu.

    Quế là loài cây sống lâu năm, cao trung bình 18 - 20cm, đường kính ngang ngực có thể đạt được 40 - 50cm, thân thẳng, tán tương đối hẹp. Quế là loài cây mọc tương đối nhanh. Giai đoạn sinh trưởng nhanh nhất về chiều cao và đường kính từ 15 - 20 tuổi.

    Cây Quế có đường kính lớn có thể xẻ gỗ. Gỗ màu nâu nhạt, thớ thẳng mịn, nhưng khi khô dễ nứt, được dùng để đóng đồ mộc gia dụng thông thường, xây dựng, làm cột nhà. Gỗ Quế có thể chế biến làm gỗ lạng.

    Giá trị kinh tế lớn của cây Quế là tinh dầu. Toàn bộ cây Quế (rễ, lá, cành, phần thịt quả, vỏ thân cây) đều có thể chưng cất tinh dầu. Tinh dầu có hàm lượng cao và chất lượng tốt tập trung ở vỏ.

    Rừng Quế trồng còn có tác dụng phòng hộ, giữ nước và điều tiết nguồn nước, chống xói mòn, rửa trôi đất, làm sạch môi trường không khí, hạn chế gió bão, thiên tai, tích lũy khí CO2, tăng độ che phủ của rừng.

    2. Điều kiện gây trồng

     - Điều kiện khí hậu: Quế thích hợp ở những nơi có khí hậu nhiệt đới ẩm, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình năm từ 21-230C. Nhiệt độ tối cao khoảng 380C, nhiệt độ tối thấp khoảng 10C. Lượng mưa trung bình năm từ 2.000mm trở lên. Tổng số ngày mưa trong năm trên 120 ngày. Độ ẩm không khí trung bình trên 80%. Số ngày có sương mù trên 150 ngày/năm.

     - Điều kiện địa hình, đất đai

    + Độ cao và độ dốc: Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc Quế thích hợp trồng ở độ cao từ 300-600m so với mực nước biển. Độ dốc vừa phải từ 100 -250.

    + Đấ́t đai:Quế sinh trưởng và phát triển tốt trên hầu hết các loại đất feralit giầu mùn, phát triển trên các loại đá mẹ như gnai, granit, acafilit, micasit, đá vôi. Thành phần cơ giới thịt trung bình hoặc thịt nhẹ, xốp ẩm, đất còn tính chất đất rừng, thoát nước tốt. Quế không thích hợp ở các khu vực có cây bụi chỉ thị đất thoái hoá như Chổi xể, Sim, Mua chiếm ưu thế, đất khô, nghèo dinh dưỡng, đất đá ong hóa, đất chua phèn, đất ngập nước và đất đá vôi khô.

    - Thực bì:Quế là cây chịu bóng trong giai đoạn từ 1-3 năm đầu, thích hợp với những nơi có rừng tự nhiên nghèo kiệt, rừng phục hồi, đất trống có cây bụi, câygỗ rải rác, nương rẫy mới, vườn hộ cây ăn quả hay cây công nghiệp, nhưng còn tính chất đất rừng và độ tàn che từ 0,3-0,5. Không thích hợp ở khu vực đất nương rẫy bỏ hoang lâu ngày và không có cây phù trợ che bóng.

    3. Sản xuất cây giống

    3.1. Vườn ươm

    Do cây con phải được nuôi dưỡng trong vườn ươm tương đối dài (12 - 18 tháng), nên vườn ươm cần bố trí đảm bảo các điều kiện sau:

    -Thuận tiện chăm sóc, bảo vệ và vận chuyển.

    - Gần nguồn nước sạch đủ tưới quanh năm. Tránh dùng nước ao tù, nước đọng.

    - Mặt bằng vườn ươm tương đối bằng phẳng (không dốc quá 50), cao ráo thoát nước tránh úng ngập. Có diện tích đủ lớn để dãn bầu hoặc phân loại cây con.

    - Tránh đặt vườn ươm nơi thung lũng hẹp thiếu ánh sáng hoặc đỉnh đồi có gió lùa.

    - Đất vườn ươm có thành phần cơ giới cát pha hay thịt nhẹ, không dùng đất đã qua canh tác cây nông nghiệp nhiều năm bị bạc mầu hoặc đã bị nhiễm sâu bệnh

    3.2. Giống

    - Cây lấy giống: là những cây trội đã được công nhận, hoặc những cây trong rừng giống đã được công nhận, có độ tuổi từ 15-20 tuổi, cây sinh trưởng, phát triển tốt, chưa bị bóc vỏ, thân thẳng, vỏ nhẵn, đoạn thân dưới cành lớn, ít mấu mắt trên thân, tán rộng và cân đối, ít cành và cành nhỏ, vỏ dày và lớp dầu của vỏ dầy, hàm lượng và chất lượng tinh dầu cao, cây không sâu bệnh.

    -  Thu hái giống:

    + Thu hái quả làm giống tốt nhất là vào vụ chính từ tháng 1 đến tháng 3 (dương lịch) hàng năm

    + Chỉ thị độ chính: vỏ quả chuyển từ màu xanh sang màu tím sẫm, thịt quả mọng nước, mùi thơm, hạt bên trong màu đen và cứng, khi đó quả rất dễ rụng.

    + Cách thu: Thu hái quả bằng cách trải tấm vải bạt dưới gốc và trèo lên cây rung cho rụng quả xuống để thu ngay là tốt nhất hoặc thu nhặt hạt do chim sau khi ăn quả thải ra.

    -  Chế biến hạt giống: 

    + Quả sau khi mang về phải tiến hành phân loại, những quả chưa chín được đưa vào ủ tiếp 2- 3 ngày cho chín đều.

    + Đống ủ không cao quá 50cm và phải để nơi thông gió. Mỗi ngày đảo 1 lần

    + Khi quả chín đều đem ngâm vào nước sạch từ 12 - 16 giờ sau đó sát và đãi trong nước sạch thu hạt, hong khô ở nơi râm mát khi hạt đã ráo nước cho vào bảo quản.

    - Bảo quản hạt giống:

    + Bảo quản theo phương pháp truyền thống: Hạt giống được trộn đều với cát ẩm từ 15-20% (tức là nắm cát trong tay khi bỏ tay ra cát vẫn giữ nguyên hình dạng của nắm cát), tỷ lệ trộn tính theo thể tích là 1 hạt + 2 cát, ví dụ 1 ống hạt Quế có thể trộn với 2 ống cát ẩm. Sau đó cho hỗn hợp hạt và cát vào túi vải hoặc vại sành để ở nơi râm mát. Theo kinh nghiệm của nhân dân có thể để ở trong hầm hàm ếch và bịt kín miệng hầm để tránh sự phá hoại của chuột, sóc hoặc côn trùng. Thời gian bảo quản không quá 30 ngày.

    + Bảo quản lạnh: Sau khi chế biến, hạt Quế được cho vào túi nilon hoặc bình thuỷ tinh đậy kín, đưa vào tủ lạnh để bảo quản. Nếu giữ ở nhiệt độ 150C thì thời gian bảo quản không quá 30 ngày. Nếu được giữ ở nhiệt độ 50C thì thời gian bảo quản không quá 9 tháng.

    3.3. Tạo bầu

    - Vỏ bầu:bằng polyetylen có đáy hoặc không có đáy, kích thước bầu 7x12cm đối với cây con 1 năm tuổi hoặc 10x15cm đối với cây con 2 năm tuổi. Nếu túi bầu có đáy phải cắt 2 góc dưới để thoát nước.

    - Thành phần hỗn hợp ruột bầu:

    + Phân ủ hoai: 10%

    + Phân vi sinh hữu cơ: 2%

    + Đất tầng A dưới tán rừng:88%

    - Pha trộn đất ruột bầu

    + Sau khi đất tập kết tại vườn ươm, được đập nhỏ và sàng qua lưới có đường kính 4cm để loại bỏ rễ cây, sỏi đá, rồi vun thành đống cao 15 - 20cm. Sau đó phun ẩm và dùng vải mưa hoặc giấy bóng phủ kín để ủ 4 - 5 ngày ngoài nắng.

    + Phân chuồng qua ủ hoai và phân Lân nung chảy nếu vón cục cũng phải đập nhỏ và sàng

    + Các thành phần kể trên được định lượng (đong bằng thúng, sảo..) theo tỷ lệ đã quy định và trộn đều trước khi đóng bầu

    + Để có độ kết dính khi đóng bầu, đất được tưới nước ẩm, nhưng tránh quá ướt (độ ẩm 75%).

    3.4. Xử lý hạt giống

    Hạt giống được rửa sạch, loại bỏ tạp chất, hạt thối, hạt lép…ngâm hạt bằng nước ấm 30-400C (2 sôi 3 lạnh) trong 8 giờ (pha nước 2 sôi 3 lạnh sau đó mới cho hạt vào ngâm), vớt ra để ráo nước, cho vào túi vải ủ trong bao tải mỗi ngày rửa lại 1 lần đến khi hạt nứt nanh thì đem gieo. Cũng có thể sau khi xử lý 2 sôi 3 lạnh đem gieo ngay vào luống đất hoặc luống cát để tạo cây mầm rồi mới nhổ cấy vào bầu đất đã đóng sẵn trong vườn ươm.

    Thời vụ gieo hạt tốt nhất vào tháng 2-3 hàng năm, trước khi trồng từ 9 - 12 tháng.

    3.5. Gieo hạt

    - Gieo hạt thẳng vào bầu:

    + Tạo1 lỗ sâu 0,5cm giữa bầu và gieo 1 - 2 hạt đã nứt nanh, sau đó phủ lớp đất mỏng từ 3 - 5mm.

    + Dùng rơm rạ phủ trên mặt luống để giữ độ ẩm, tránh nắng.

    - Gieo hạt trên luống:

    + Đất luống gieo cần tơi nhỏ, bón lót cho 1m2 từ 3 - 5kg phân chuồng hoai.

    + Có thể gieo theo hàng hoặc gieo vãi. Số hạt gieo: 1kg/10m2.

    + Sau khi gieo tiến hành phủ hạt. Lớp đất phủ không quá 4mm, sau đó phủ rơm rạ trên mặt luống. Rơm rạ được phủ cần khử trùng.

    + Sau khi gieo tiến hành tưới nước. Tưới 6 lít cho 1m2

    3.6. Cấy cây

    - Sau khi gieo 60 - 75 ngày, cây cao được khoảng 3 - 5cm, chọn những cây khoẻ mạnh đem cấy vào bầu

    - Sau khi cấy cần tưới nước đủ ẩm và che bóng cho cây

    - Chỉ tiến hành cấy cây khi trời râm mát hoặc mưa nhẹ, tránh những ngày nắng gắt, gió mùa Đông Bắc. Trước hôm cấy cần tưới đất ướt đều: Cứ 1m2 tưới 4 - 6 lít nước.

    - Cây cấy sau khi nhổ cần nhúng luôn vào bát nước để tránh khô rễ mầm. Cấy đến đâu nhổ đến đấy. Loại bỏ những cây xấu. Dùng que nhọn chọc 1 lỗ sâu 1- 2 cm ở giữa bầu, hướng cây mầm sao cho cổ rễ ngang mặt bầu và dùng que ép chặt đất với rễ mầm. Trường hợp rễ cây mầm quá dài có thể cắt bớt, nhưng tránh gây dập nát.

    3.7. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh

    a. Chăm sóc cây con

    - Làm giàn che bóng:

    + Trong giai đoan vườn ươm Quế cần che bóng. Độ che bóng phù hợp từ 50 - 70%.

    + Dùng tre, nứa hoặc rơm rạ, lưới P.E để điều  chỉnh ánh sáng khi cần thiết.

    + Trước khi xuất vườn 1- 2 tháng dỡ bỏ dàn che xuống 30 - 40%

    - Tưới nước

    + Tưới nước thường xuyên sau khi gieo hoặc cấy cây nếu trời không mưa, không được để khô luống.

    + Khi hạt mọc dỡ bỏ rơm rạ phủ mặt luống và cắm ràng ràng che bóng. Thời gian hạt chưa bỏ mũ thường xuyên tưới mỗi ngày ít nhất 1 lần vào buổi sáng sớm hoặc buổi chiều. Lượng nước tưới 2 - 4lít/1m2. Tưới liên tục trong 3 tháng đầu, sau đó chỉ tưới khi đất khô

    + Tuỳ theo thời tiết mà ở giai đoạn sau điều tiết lịch tưới cho phù hợp: Cách   10 - 15 ngày tưới 1 lần.

    + Trước khi xuất vườn 1 - 2 tháng tuyệt đối không được bón thúc và  hạn chế tưới nước để hãm cây

    - Cấy dặm: Sau khi cấy cây 5 - 10 ngày, cây nào chết cần tiến hành cấy dặm ngay.

    - Nhổ cỏ phá váng: Luôn làm cỏ sạch trên mặt luống. Thời gian đầu cứ sau 10 - 15 ngày cần làm cỏ, kết hợp phá váng 1 lần. Dùng que vót nhọn xới nhẹ phá lớp váng tạo trên mặt bầu, tránh không làm hư tổn đến bộ rễ cây

    - Bón thúc

    + Có thể bón thúc bổ trợ để thúc đẩy sinh trưởng của cây con trường hợp cây sinh trưởng kém ở các thời điểm cây 120 ngày, 180 ngày, 240 ngày. Sau 15 - 20 ngày thúc 1 lần

    + Dùng loại dung dịch dinh dưỡng hoặc phân vi sinh hữu cơ. Tưới dung dịch nước phân bằng bình hoa sen.

    + Không tưới thúc vào những ngày nắng gắt, vào lúc buổi trưa nắng. Tốt nhất nên bón vào những ngày râm mát hoặc mưa phùn.

    b. Phòng trừ sâu bệnh

    Xử lý đất bằng nấm Metarhizium kết hợp với Trichodecma để loại trừ sâu non, nhộng, các sâu thân mềm khác vùng với nấm đối kháng với bệnh thối gốc do nấm Fusarium và Rhizoctonia gây ra. Có thể xử lý bằng nhiệt mặt trời trong điều kiện đủ nắng

    Sau khi xử lý đất, Bẫy bắt sâu xám bt sâu xám bằng cách để một vài đống nhỏ tàn dư thực vật ở rãnh luống hoặc trên mặt luống dụ sâu vào trú khi ra ăn đêm, sáng sớm ra bắt sâu trú trong đó. Các đối tượng sâu, bệnh hại chính gồm: sâu xám, sâu khoang, sâu xanh,  bệnh thối cổ rễ...

    * Biện pháp canh tác, thủ công:

    Sử dụng nấm đối kháng Trichoderma ủ với phân hữu cơ hoai mục.

    Vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng kết hợp sử dụng các chế phẩm sinh học EMINA, BIOEM, EM,... để ủ.

    Ngắt bỏ lá bị bệnh hại, ngắt ổ trứng, bắt giết sâu non (sâu xám bắt vào buổi tối).

    Để ở các rãnh luống những đống cỏ hoặc tàn dư thực vật sâu sẽ ra ăn đêm và chui vào các đống này để trú ẩn dễ dàng thu bắt vào buổi sáng.

    Tạo môi trường thuận lợi cho thiên địch phát triển, dẫn dụ, xua đuổi côn trùng gây hại như: hoa cúc, hướng dương, soi nhái,sen cạn, ba lá, linh lăng, húng, bạc hà, hành, tỏi, xả, gừng,...trồng xen vào các luống hoặc đầu luống.

    Bẫy chua ngọt trừ trưởng thành họ ngài đêm (sâu khoang, sâu xám,...):

    Cách làm bẫy: hỗn hợp 4 phần mật (đường) + 4 phần dấm + 1 phần rượu + 1 phần nước + thuốc trừ sâu khuấy kỹ. Chứa vào xô nhựa, can nhựa đậy kín, sau 3 - 4 ngày bốc mùi chua ngọt thì đem ra sử dụng. Vật liệu đựng bẫy: làm bằng hộp nhựa, chai nhựa (đường kính, chiều cao, thể tích phù hợp thực tế) trên thành hộp đục các lỗ tròn có đường kính 2 - 3cm.

    Sử dụng: 0,1 - 0,15 lít/hộp, 3 - 5 bẫy/sào hoặc có thể sử dụng bùi nhùi bằng rơm nhúng bả sau đó cắm trên ruộng.

    Khuyến khích sử dụng các chế phẩm tự nhiên từ gừng, tỏi, giềng (Vật liệu gồm: gừng, tỏi, giềng, đường đỏ; cách làm: thái mỏng gừng, tỏi và để riêng từng lọ, cho rượu trắng vào từng lọ theo tỷ lệ 1 kg vật liệu/1 lít rượu; sau 12 giờ thêm vào một lượng đường đỏ theo tỷ lệ (1:0,3) 1 kg vật liệu ban đầu /0,3 kg đường, trộn đều, đậy kín bằng giấy bản để 5 ngày. Sau 5 ngày, tiếp tục thêm một lượng rượu trắng theo tỷ lệ 1 kg vật liệu ban đầu/5 lít rượu (1:5) để 15 ngày, tách riêng phần chất lỏng và bã; giữ phần chất lỏng trong lọ kín để ở nơi bóng mát, làm vật liệu nguyên chất pha loãng dùng dần: 1 chén rượu gừng + 1 chén rượu tỏi + 8 lít nước).

    c) Biện pháp sử dụng thuốc BVTV:

    Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phát hiện sớm bệnh, điều tra phát dục sâu hại, dự tính thời gian trưởng thành, sâu non rộ; dự báo mức độ bệnh hại để hướng dẫn phòng trừ đúng thời điểm; sử dụng thuốc BVTV sinh học, thảo mộc có thời gian cách ly ngắn khi mật độ sâu, tỷ lệ bệnh cao, không thể khống chế bằng biện pháp thủ công.

    Mặc dù các thuốc có nguồn gốc thảo mộc được phép dùng nhưng không khuyến khích vì nó cũng tiêu diệt cả thiên địch

    Chú ý:  Đảm bảo đủ thời gian cách ly đối với từng loại thuốc theo hướng dẫn trên nhãn thuốc. Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng. Vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau khi sử dụng phải được thu gom vào đúng nơi qui định.

    3.8. Tiêu chuẩn cây con xuất vườn

    - Tuổi cây: 12 - 18 tháng; Đường kính cổ rễ: 0,25 - 0,30cm; Chiều cao bình quân: 25 - 30 cm; Cây đã hoá gỗ hoàn toàn; Cây không bị nhiễm bệnh; Cây không bị cụt ngọn, không nhiều thân; Không trồng khi cây đang có đọt non

    4. Kỹ thuật trồng, chăm sóc và nuôi dưỡng rừng Quế

    4.1. Phương thức và thời vụ trồng Quế

    a. Phương thức trồng Quế

    - Trồng tập trung thuần loài: Là chỉ trồng 1 loài Quế trên toàn bộ diện tích đã quy hoạch, có thể là đất trống sau nương dẫy, đất trống đồi núi trọc chỉ có cây bụi thưa hoặc trảng cỏ, trồng lại trên đất đã khai thác Quế… Đây là phương thức chủ yếu thường thấy ở các vùng trồng Quế của nước ta hiện nay, tất cả cây Quế đều trồng 1 lần trong 1 năm, nên thường chỉ là rừng 1 tầng.

    - Trồng theo phương thức Nông – lâm kết hợp: Phương thức này cũng giống như phương thức trồng tập trung thuần loài như đã nêu trên, nhưng trong những năm đầu được trồng xen cây nông nghiệp như sắn, lúa hay chè… Ngoài ra, trong thực tế còn thấy Quế được trồng làm giầu rừng hay hỗn giao với cây lá trộng thường xanh, nhưng phương thức này không phổ biến.

    - Trồng phân tán trong các vườn hộ:  Là phương thức trồng quanh nhà, trồng xen cây ăn quả trong vườn hộ. Đây cũng là phương thức thường thấy ở các vùng trồng Quế của nước ta hiện nay. Theo phương thức này thì các cây Quế có thể trồng cùng 1 năm hoặc có thể khác năm, trong đó có cả các loài cây ăn quả hoặc cây gỗ khác, tạo nên nhiều tầng tán.

    b Thời vụ trồng Quế

    - Vụ Xuân: tháng 2- tháng 4

    - Vụ thu: tháng 7- tháng 9

    4.2. Mật độ trồng Quế

    - Trồng tập trung thuần loài: Trong thực tế nhân dân ở nhiều địa phương đã trồng Quế với mật độ từ 5.000 đến 10.000 cây/ha (Cự li 2x1m hoặc 1x1m), nhưng khuyến cáo chỉ nên trồng với các mật độ như sau: 1.660 cây/ha (cự li 3x2m), hoặc 2.500 cây/ha (Cự li 2x2m), hoặc 3.300 cây/ha (Cự li 1,5x2m).

    - Trồng theo phương thức Nông-lâm kết hợp: Mật độ trồng theo phương thức nông lâm kết hợp phổ biến là 5.000 cây/ha (cự li 1x2m), hoặc 3.300 cây/ha (cự li 1,5x2m).

    - Trồng phân tán trong các vườn hộ:  Tùy theo điều kiện cụ thể của từng gia đình, trong vườn hộ có thể trồng mật độ rất khác nhau, nhưng phổ biến với cự ly tối thiểu giữa các cây trong vườn từ 2-3m.

    4.3. Xử lý thực bì

    Tùy theo đặc điểm điều kiện tự nhiên của nơi trồng rừng, có thể áp dụng một số phương thức và biện pháp xử lý thực bì cụ thể như sau:

    - Đối với địa hình bằng phẳng có độ dốc nhỏ (D<150): Xử lý thực bì toàn diện bằng cách luỗng phát toàn diện dây leo, cỏ dại, gốc tre nứa, thực bì băm ngắn, xếp cạnh hố trồng hoặc xếp gọn theo đường đồng mức. Nếu là rừng tự nhiên nghèo kiệt thì cần phải chừa lại cây gỗ bản địa tái sinh có giá trị và cây che bóng giai đoạn ban đầu, điều chỉnh độ tàn che tầng cây cao khoảng 30% để che bóng cho cây Quế mới trồng trong giai đoạn đầu.

    - Đối với địa hình có độ dốc lớn (D>150): Cần phải xử lý thực bì theo băng hay rạch.

    + Xử lí thực bì trong rạch trồng cây rộng 1m. Phát dọn hết cỏ dại, cây tái sinh không mục đích và cây bụi. Với loài cây bụi có khả năng tái sính chồi phải cuốc lật gốc. Để lại nuôi dưỡng những cây mục đích có triển vọng.

    + Băng chừa để lại rộng 3m.

    - Công việc xử lý thực bì phải hoàn thành trước khi trồng rừng 1 - 2 tháng.

    4.4. Làm đất

    a. Cuốc hố

    - Quy cách hố: 40x40x40cm

    - Khi cuốc để riêng phần đất tốt: đất đen tới xốp ra một bên. Để khi lấp dùng đất này lấp xuống dưới đáy hố.

    - Thời gian cuốc hố phải hoàn thành trước lúc trồng rừng từ 15 ngày - 1 tháng.

    b. Lấp hố và bón phân

    - Trước khi trồng 7-10 ngày, tiến hành lấp hố và kết hợp bón lót bằng cách lấy phần đất mặt trộn đều với 3-5kg phân chuồng ủ hoai hoặc 0,5-1kg phân vi sinh hữu cơ rồi lấp xuống hố.

    - Hố được lấp đầy bằng cách đưa phần đất mặt trộn đều với phân xuống trước, sau đó mới lấp phần đất bên dưới lên trên, lấp đất đầy đến ngang miệng hố và cao hơn mặt đất xung quanh từ 3-5cm như hình mai rùa để tránh đọng nước.

    4.5. Trồng cây

    - Trồng cây vào những ngày có mưa nhỏ hoặc râm mát. Tránh trồng vào lúc trưa nóng hoặc có gió mùa Đông Bắc.

    - Bố trí trồng cây từ trên đỉnh xuống chân đồi (Từ trên xuống dưới)

    - Khi trồng nhất thiết phải rạch vỏ bầu. Dùng dao lam hay kéo sắc rạch bầu, tránh làm bầu bị hư hại

    - Dùng cuốc hoặc xẻng bới 1 lỗ giữa hố sâu bằng chiều cao của bầu cây trồng. Đặt cây sao cho cổ rễ ngang mặt hố, rồi vun đất xung quanh cho kín. Có thể dùng tay hoặc chân dẫm chặt xung quang gốc cây, tránh dẫm vào bầu làm vỡ bầu

    4.6. Chăm sóc

    - Chăm sóc năm đầu mới trồng rừng:Tiến hành chăm sóc lần 1 ngay sau khi trồng rừng 1 - 2 tháng.

    + Trồng dặm những cây chết

    + Phát luỗng dây leo, cỏ dại và cây bụi chèn ép cây Quế

    + Xới đất và vun gốc đường kính rộng 40cm

    + Phát dọn dây leo, cỏ dại trong băng trồng ảnh hưởng đến cây trồng.

    + Giữ độ che phủ hợp lí cho Quế trong giai đoạn này là: 50 - 70%

    + Bảo vệ không cho gia súc phá cây.

    Chăm sóc năm thứ 2: Chăm sóc 3 lần, lần 1 vào đầu mùa xuân (tháng 1-2), lần 2 vào đầu mùa mưa (tháng 4-5), lần 3 vào đầu mùa khô (tháng 10-11). Nội dung chăm sóc chủ yếu là phát dọn dây leo, bụi rậm, cỏ dại xâm lấn, làm cỏ, vun xới đất xung quanh gốc đường kính rộng từ 0,8-1m, kết hợp với bón thúc phân, liều lượng 0,5 -1kg phân hữu cơ vi sinh hữu cơ cho 1 gốc. Nếu trồng thuần loài tập trung xen cây nông nghiệp thì khi chăm sóc cho cây nông nghiệp cũng là chăm sóc cho Quế; phải luôn luôn chú ý không để cây nông nghiệp và cây phù trợ khác cạnh tranh với Quế về ánh sáng và độ ẩm đất.

    - Năm thứ 3: Mỗi năm chăm sóc 3 lần như năm thứ 2.

    - Năm thứ 4 và năm thứ 5: Mỗi năm chăm sóc 2 lần, lần 1 vào đầu mùa mưa (tháng 4-5), lần 2 vào đầu mùa khô (tháng 10-11) và kết hợp phòng chống cháy rừng. Nội dung chăm sóc chủ yếu là phát dọn thực bì, phát dây leo, cây bụi xâm lấn, bón thúc phân, liều lượng 0,5 -1kg phân hữu cơ vi sinh hữu cơ cho 1 gốckết hợp tỉa cành tạo tán và điều chỉnh độ tàn che, nếu có cây rừng cạnh tranh ánh sáng cần chặt bỏ để tạo điều kiện cho cây Quế sinh trưởng và phát triển đồng đều và tốt hơn.

      

    Phạm Thị Thủy - Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái